Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (Nonalcoholic fatty liver disease- NAFLD) gần đây đang
trở thành bệnh lý khá phổ biến và đang có xu hướng ngày càng tăng trên thế giới. Bệnh thường có
biểu hiện âm thầm, không có triệu chứng đặc hiệu. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu có mối liên quan mật thiết đến béo phì, sự đề kháng insulin, đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa lipid và là yếu tố nguy cơ độc lập biến cố tim mạch. Gan đóng vai trò trung tâm trong quá trình chuyển hóa lipoprotein đồng thời gan còn là nơi chuyển hóa chính các chất béo trung tính thay thế và đặc biệt là cholesterol. Do đó, có mối liên hệ phức tạp giữa rối loạn chức năng chuyển hóa ở gan trong NAFLD và sự thay đổi quá trình chuyển hóa và thành phần lipoprotein. Do vậy, sự hiểu biết rõ ràng hơn về gan nhiễm mỡ và rối loạn chuyển hóa lipid không chỉ có thể kiểm soát hạn chế tổn thương gan tiến triển mà còn dự phòng các biến cố tim mạch. Tầm soát bệnh gan nhiễm mỡ là cần thiết trên những bệnh nhân (BN) có rối loạn chuyển hóa lipid máu (RLLPM) giúp bác sĩ đánh giá tình trạng xơ hóa gan tiến triển cũng như kiểm soát các yếu tố nguy cơ tim mạch. Tại Bệnh viện Quân y 175, bệnh nhân rối loạn chuyển hóa lipid máu đến khám và điều trị ngày càng nhiều, tuy nhiên việc tầm soát, quản lý bệnh gan nhiễm mỡ ở các BN này vẫn chưa được quan tâm nhiều. Vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm mục tiêu: Khảo sát các yếu tố liên quan đến mức độ nhiễm mỡ và xơ hóa gan ở bệnh nhân rối loạn chuyển hóa lipid máu có bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu tại Bệnh viện Quân y 175.
Kết quả: Bệnh nhân rối loạn lipid máu có NAFLD chiếm tỷ lệ rất cao (80,6%), , trong đó có tới 51,85% bệnh nhân mắc viêm gan nhiễm mỡ. 93,21% bệnh nhân ở giai đoạn xơ hóa gan nhẹ, xơ hóa gan đáng kể chiếm 4,32% và xơ hóa gan tiến triển chiếm 2,47%. Khi so sánh các giai đoạn xơ hóa giữa 2 nhóm
bệnh nhân có và không có NAFLD chúng tôi thấy tỷ lệ các giai đoạn xơ hóa ở BN có NAFLD cao hơn đáng
kể so với BN không có NAFLD. Điều đó chứng tỏ sự hiện diện của NAFLD ở BN RLLM đưa đến nguy cơ xơ
hóa gan cao hơn những BN RLLM không có NAFLD.
Bệnh nhân rối loạn lipid máu có NAFLD chiếm tỷ lệ cao, trong đó có tới hơn một nửa bệnh nhân mắc viêm gan nhiễm mỡ và hầu hết ở giai đoạn xơ hóa gan nhẹ. Bệnh nhân ở giai đoạn xơ hóa gan đáng kể có nồng độ GGT cao hơn có ý nghĩa so với bệnh nhân xơ hóa gan nhẹ. Nồng độ triglyceride máu là yếu tố độc lập dự đoán xơ hóa gan tiến triển trên BN RLLM có NAFLD.
Nguồn: Tạp chí y dược lâm sàng 108 Tập 19 số 1, benhvien108.vn